Tin tức nông nghiệp

Thứ Năm, 16 tháng 7, 2020

Kỹ thuật nuôi cá Mú trong ao



I. Tổng quan

- Cá mú hay còn gọi là cá song có thịt thơm ngon, giàu dinh dưỡng, là đặc sản được tiêu thụ tại các nhà hàng ở dạng cá sống và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao…

- Do tập tính sống trong môi trường có nguồn nước lưu thông thường xuyên nên đa số người nuôi thường thả cá vào lồng, bè treo dưới biển. Với hình thức nuôi lồng, đối tượng này tỏ ra khá thích hợp và đã mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nuôi. Song, hình thức nuôi này khá tốn kém và cá thường xuyên chịu ảnh hưởng của môi trường nước bên ngoài có nhiều biến động do ảnh hưởng xả lủ, áp thấp nhiệt đới, bão, các chất thải tàu khai thác vào neo đậu. Do vậy nuôi cá mú trong ao đất là một niềm hy vọng mới cho bà con ngư dân, vì chi phí đầu tư vừa phải, hệ số thức ăn thấp, cá ít bị bệnh.

II. Kỹ thuật nuôi

1. Ao nuôi

Diện tích ao nuôi từ 500 – 5000 m2, cải tạo sên vét bùn đáy, lấp kín hang hốc, nếu có điều kiện trãi bạt càng tốt, tránh cá đào hang quanh bờ.

2. Giống

Có thể thả cá giống được thu gom tự nhiên cỡ 5 – 7 cm hoặc 10 – 15 cm, hoặc chọn cá sinh sản nhân tạo; cá không xây xát, dị hình; màu sắc tươi sáng, hoạt động nhanh nhẹn.


3. Mật độ thả

Cá mú là loài cá dữ, có thể ăn thịt lẫn nhau khi thiếu mồi, nên thả ở mật độ thưa từ 1 – 3 con/m2.

4. Yêu cầu môi trường nước

Thường xuyên kiểm tra các yếu tố môi trường nước, giữ các chỉ số ổn định trong giới hạn thích hợp bảo đảm cho cá phát triển bình thường về:

- Độ mặn:10 – 23 ‰

- pH:7,5 – 8,5

- Độ trong: 30 – 45 cm

- NH3: 0 – 0.008 mg/l

- Độ kiềm: 60 – 100 mg/l

5. Kỹ thuật chăm sóc và quản lý

Hàng ngày cho ăn bằng cá tạp tươi: cá cơm, cá trích, cá liệt…. Cá tạp rửa sạch cắt khúc vừa miệng cá, khẩu phần ăn từ 3 – 10 % trọng lượng thân/ngày, tùy từng giai đoạn phát triển của cá.

- Tháng đầu cho ăn 10% trọng lượng thân, cho ăn 3 lần/ngày. Các tháng tiếp theo cho ăn 2 lần/ngày, khẩu phần ăn cho theo nhu cầu bằng cách dùng sàng đặt dưới ao. Hàng ngày kiểm tra sàng 2 lần ngay sau những lần cho ăn nhằm tránh tình trạng thức ăn dư làm ô nhiễm nguồn nước ao.

- Khi cá ăn mạnh, định kỳ trộn vitamin C và men tiêu hoá vào thức ăn cho ăn liên tục 5 ngày, sau đó cách 5 ngày cho ăn tiếp.

- Trong ao bố trí chà và các ống nhựa có đường kính 10 – 20 cm cho cá trú ẩn, hạn chế cá tấn công nhau gây xây xát nhiễm bệnh cơ hội. Định kỳ thu mẫu bằng cách vớt những ống nhựa lên để kiểm tra sức khoẻ cũng như tốc độ tăng trưởng của cá.

III. Phòng và trị một số bệnh thường gặp

1. Cách phòng bệnh

Việc phòng bệnh phải được đặt lên hàng đầu trong nghề nuôi thuỷ sản nói chung và nghề nuôi cá nói riêng, nhất là đối với những loài ăn thức ăn tươi như cá mú. Công việc này phải tiến hành ngay từ đầu để giảm bớt rủi ro trong quá trình nuôi. Cần làm tốt những việc sau:

- Ao nuôi phải nằm gần nguồn nước có độ mặn, pH thích hợp cho đối tượng, điều kiện cấp thoát nước dễ dàng. Bên cạnh đó nguồn nước ngọt phải đầy đủ để xử lý cá bệnh khi cần.

- Chọn giống khoẻ, đồng cỡ, không xây xát, hoạt động nhanh nhẹn.

- Thả nuôi ở mật độ vừa phải, không thả quá dày.

- Cá tạp dùng làm thức ăn cho cá phải tươi, rửa sạch bằng nước ngọt. dùng sàng ăn kiểm tra sức ăn của cá, không cho ăn dư sẽ ảnh hưởng đến môi trường ao nuôi.

- Định kỳ bổ sung vitamin C, men tiêu hoá vào thức ăn để tăng sức đề kháng cho cá nuôi.

- Thường xuyên thu mẫu kiểm tra tình trạng sức khoẻ cá, xem vây, mang, da, mắt…để kịp thời phát hiện bệnh xử lý ngay.

2. Một số bệnh thường gặp

a) Bệnh do virus:

- Nguyên nhân: Do cá bị sốc bởi các yếu tố môi trường thay đổi đột ngột về pH, độ mặn, các vật chất hữu cơ tăng cao làm mất sức đề kháng, là điều kiện tốt cho mầm bệnh trong cơ thể phát triển.

- Dấu hiệu: Cá bơi xoay tròn và yếu dần, màu sắc thân tối, mang lợt màu, mắt lồi có màu vàng. Bệnh gây chết hàng loạt khi nuôi ở mật độ quá dày, thường thấy ở cá nuôi bè, hiện nay chưa có thuốc đặc trị.

b) Bệnh ghẻ (lở loét):

- Tác nhân gây bệnh: Do vi khuẩn tấn công gây lở loét ở da, vây. Đây là các tác nhân cơ hội gây bệnh cho cá khi sức khoẻ cá bị suy yếu do thiếu sự chăm sóc hay do môi trường biến động lớn.

- Dấu hiệu: Các vây bị thối rữa, xuất huyết dưới da gây lở loét.


- Cách điều trị:

+ Tắm cá trong nước ngọt 15 – 20 phút, có sục khí.

+ Tắm cá bằng dung dịch oxytetracyline 30ppm (30g thuốc cho vào 1.000 lít nước ngọt), có sục khí.

c) Bệnh do ký sinh trùng:

- Tác nhân gây bệnh: Do các sinh vật tương đối lớn như protozoa, giáp xác, giun, đĩa… chúng ký sinh ở mang, da, mắt gây khó chịu cho cá và làm cá chậm lớn.

- Dấu hiệu: Cá tập trung lại gần nơi có nước chảy, cá cọ mình vào vật cứng, da bị tổn thương, mang lợt màu.

- Cách điều trị:

+ Tắm cá trong dung dịch formol 200mg/l trong 30 – 40 phút, có sục khí.

+ Tắm cá trong dung dịch oxy già 150mg/l trong 30 phút, có sục khí.

+ Tắm cá trong dung dịch đồng sunfat 0,5mg/l trong 30 phút, có sục khí.

+ Trường hợp xử lý ngay trong ao để ngâm cần tháo nước bớt, dùng 1/2 liều lượng nêu trên, xử lý trong 1 – 3 giờ, sau đó cấp thêm nước mới, ngày sau thay 30 % nước.

IV. Thu hoạch

Tuỳ theo cỡ giống thả mà thời gian nuôi đến lúc thu hoạch khác nhau từ 6 đến 10 tháng. Khi cá đạt trọng lượng từ 0,6 – 1 kg/con dùng lưới vây thu lần thứ nhất, sau đó tháo cạn nước thu toàn bộ. Nên kéo lưới lúc trời mát để ít ảnh hưởng đến cá, chuẩn bị các dụng cụ như thau, chậu, máy sục khí để bảo đảm chất lượng cá thương phẩm.

Kỹ thuật nuôi cá mú trong ao by TT Khuyến ngư Kiên Giang.



Đăng ký: Bài đăng

Kỹ thuật nuôi Dòi

Ngành công nghiệp... nuôi giòi


I. Tổng quan

- Ấu trùng của ruồi, nhặng gọi là dòi. Dòi sử dụng thức ăn là phân tươi của vật nuôi, sinh sản cực nhanh, nuôi nhân tạo rất đơn giản, bà con nhà nông đều có thể tự làm.

- Thành phần dinh dưỡng trong dòi rất phong phú: protein thô 56 – 63% (bình quân 59,5%), chất béo thô 13%, tro 7%, đường 3,1% là thức ăn giàu protein, thành phần dinh dưỡng ngang ngửa với bột cá Pêru. Dòi tươi sống có hàm lượng protein 15%, chất béo thô 5,8%, đủ chất dinh dưỡng làm thức ăn nuôi trực tiếp cho lợn, gà, vịt, cá, đồng thời là thức ăn sống tốt nhất, có giá thành thấp nhất để nuôi các động vật đặc sản như tôm, cua, cá trình, lươn, ếch, cá song, ba ba, rùa…

- Nuôi dòi quá dễ, rất ít tốn kém, chu kỳ ngắn. Cứ 2.000g phân tươi có thể sản xuất 500g dòi. 1m3 lồng có thể sản xuất 150g dòi/ngày. Nếu dùng lồng nuôi 3 tầng, trong 10 tháng, mỗi ngày có thể thu được 20 – 25kg dòi. Giá thành 1 kg dòi sống chưa tới 500 đồng. Nếu tính quy đổi 4kg dòi sống thành 1kg bột cá, thì giá thành không bằng 30% bột cá. Có một gia đình nông dân, dùng lồng tre nuôi dòi, với 14 lồng mỗi ngày sản xuất được 30kg dòi sống, đủ nuôi 1.000 con ba ba. Nếu nuôi dòi trở thành một chuỗi sinh học để sản xuất thức ăn, giá thành nuôi ba ba giảm gần một nửa, năng suất lại tăng gấp bội.

- Nuôi dòi có 2 khâu quan trọng: nuôi ruồi bố mẹ và gây nuôi dòi thành phẩm, kỹ thuật khác nhau nhiều. Nhưng nuôi dòi chỉ để làm thức ăn thì không cần nuôi ruồi bố mẹ, mà sử dụng ruồi bố mẹ trong thiên nhiên để đẻ trứng, rồi nuôi thành dòi, đỡ tốn kém hơn nhiều.

II. Kỹ thuật nuôi

1. Lựa chọn thức ăn

Cách phối chế: tốt nhất là kết hợp phân gà với phân lợn. Dùng phân trâu bò kém hiệu quả. Có 3 cách thức phối chế:

- Phân lợn, gà mỗi loại 50%, thêm chút ít nước, độ ẩm 80%.

- Phân lợn 1 phần, phân gà 2 phần, thêm nước, độ ẩm 80%.

- Phân lợn 2 phần, phân gà 1 phần, thêm nước, độ ẩm 80%.

2. Kỹ thuật nuôi dòi

a. Dùng chậu nhựa:

Mỗi chậu nhựa sản xuất 1 – 1,5kg dòi, có thể nuôi 50 – 75 con rùa cá sấu. Sử dụng nội tạng động vật, chuột chết, đặt vào nơi có nhiều ruồi, nhặng để nhử chúng đến đẻ trứng. Thu trứng dòi vào sáng và tối, đưa trứng vào chậu nhựa đường kính 60cm, hoặc thùng nhựa đường kính 30cm, cho thêm chút ít rượu vào chậu, giữ độ ẩm, đậy nắp, sau 2 – 3 ngày sẽ có dòi. Cách làm này có thể làm ngoài trời, không cần giống. Thức ăn nuôi dòi, từ ít đến nhiều, sử dụng phân gà, lợn trộn theo tỉ lệ 1/1 cho vào chậu. Một chậu nhựa đường kính 60cm, cho 1kg phân, cho thêm 100cc nước đường có 3% rượu (hoặc nước dỉ đường), sau 4 – 5 ngày là có dòi. Khi thu dòi, cho nước vào chậu dùng gậy đập nhẹ vào chậu, dòi sống sẽ nổi lên mặt nước, dùng vợt vớt ra rửa sạch, khử trùng rồi đem nuôi. Nước bã cho vào bồn khí sinh học hoặc hố phân để phân huỷ. Cũng có thể sử dụng nước bã này đưa vào ao để nuôi rùa, ba ba, lươn, cá…


b. Nuôi trên đất ngoài trời:

Là cách nuôi phù hợp phương thức nuôi quy mô lớn.

- Chọn nơi nuôi: chọn nơi đất bằng phẳng xa nhà, gần trại chăn nuôi, diện tích khoảng 4m2.

- Làm lồng nuôi: dùng cọc sắt hoặc gỗ để làm lồng nuôi, cao 50cm, phía trên lồng và 2 bên có lớp các tông để che nắng. Xung quanh lồng có 1 lớp vải nhựa che phủ để giữ nhiệt, giữ ẩm. Lồng có kích cỡ nhỏ, có thể di chuyển.

- Trên lớp đất phẳng được rải phân gà trộn phân lợn theo tỉ lệ 1/1. Cho thêm nước, đảm bảo độ ẩm phân, giữ lớp phân tơi xốp, dầy 5 – 10cm. Sau đó đậy lồng lên lớp đất đã rải phân, dỡ vải nhựa 2 bên, trên lớp phân rải bỏ thêm vài con chuột chết hoặc nội tạng động vật để nhử ruồi.

- Sau khi rải phân, giữ phân đủ ẩm, để ruồi đẻ trứng và nở. Với phân gà chỉ cần giữ ẩm là được, nhưng nếu dùng phân lợn thì cho thêm nước amôniac 0,03% để nhử ruồi đến đẻ trứng. Sau ngày đầu tiên ruồi đẻ trứng, bỏ vải nhựa xung quanh lồng, nén nhẹ lớp phân, để trứng ruồi nở. Sau 8 – 12 giờ, trứng ruồi sẽ nở. Sau khi trứng nở, không được để đọng nước. Sau khi nở 6 – 9 ngày, có thể thu dòi. Phải đảm bảo không để dòi hoá nhộng. Do dòi sợ nắng, khi thu dòi, rỡ chụp lồng, để ánh nắng chiếu thẳng vào lớp phân, dòi sẽ chui xuống đáy, sau đó gạt lớp phân phía trên, rồi gom phân và dòi ở phía dưới, có thể thu được dòi, phân còn lại sẽ bổ sung phân tươi rồi san ra tiếp tục nuôi dòi đợt sau.

c. Cách nuôi trong chậu ven ao:

Dùng 1 chậu đường kính 40cm treo trên mặt ao nuôi rùa đặt cách nhau 1 – 2m. Chậu đặt cách mặt nước 20cm. Cho phân vào chậu, trộn chút ít nước amoniac, trên đó bỏ vài con chuột chết hoặc nội tạng động vật để nhử ruồi đẻ trứng. Ruồi nhặng sẽ kéo nhau vào đẻ, chỉ sau 7 ngày là có dòi bò ra trong chậu. Khi đó, đổ lớp phân có dòi xuống ao để rùa ăn.

Cách làm này rất đơn giản, cứ 2 kg phân thu được 500g dòi. Cần lưu ý, chậu không sâu quá, khoảng 10 – 15cm, nên dùng chậu nhựa, đáy có 2 – 3 lỗ thoát nước để không đọng nước khi gặp mưa. Khi cho phân vào chậu, dùng giấy các tông che 3/4 chậu, còn chừa lại 1/4 để nhử ruồi, nhặng. Việc che nắng còn có lợi cho sinh trưởng của ruồi. Trong quá trình nuôi, phải giữ độ ẩm vừa phải.

d. Nuôi trên giá đặt trong nhà:

Cách nuôi này phù hợp phương thức nuôi trang trại lớn. Cấu trúc giá nuôi đảm bảo tự động tách dòi, giảm nhân công, thao tác thuận tiện, quản lý dễ.

- Làm nhà nuôi dòi: sử dụng nhà cũ, kho cũ, xa dân cư, gần chuồng trại, để tiện lấy phân tươi. Một gian rộng 30 – 50m2, có cửa kính hoặc lưới thép. Xung quanh gian nhà có rãnh ngăn kiến.

- Giá nuôi dòi: trong gian phòng làm giá phẳng xây bằng gạch rộng 1,5m2, cao 30cm. Trên giá phẳng có xây gờ xung quanh, cao 10cm, xung quanh giá có rãnh rộng 3cm, sâu 2cm để thu dòi. Trên giá phẳng dùng xi măng láng mặt trơn nhẵn. Ở 2 góc hai bên có lỗ thu dòi, đường kính 3cm, phía dưới lỗ này có đặt bình hứng dòi.

- Cho ăn, nhử dòi và thu dòi: phân tươi (lợn và gà) được sử dụng tương tự các cách làm trên. Phân được trộn nước, rải thành đống nuôi dòi ở giữa, phía trong dầy 15cm, xung quanh 3 – 4cm. Trên giá có bỏ chuột chết, nội tạng động vật khoảng 500g. Sau khi đưa trứng vào 4 – 5 ngày là có dòi. Khi dòi trưởng thành sẽ tự động bò ra khỏi đống phân, tìm nơi để hoá nhộng. Chúng sẽ bò tập kết vào rãnh rồi rơi xuống bình hứng dòi. Vào mùa hè mỗi ngày đổi bình hứng dòi 2 lần, dòi tươi lấy ra, rửa bằng KMnO4 0,1% trong 3 phút có thể để nuôi.

- Đổi thức ăn: lần cho ăn đầu tiên sau khi gây nuôi 5 ngày là có dòi. Khi đó, thức ăn ở phía trên vẫn chưa sử dụng, phía dưới cũng sử dụng chưa hết. Do đó, sau khi thu dòi lần 1 cho thêm 40% thức ăn mới trộn vào thức ăn cũ, rồi gây dòi lần 2. Lần 3 thêm 50% thức ăn mới, những lần sau đó bổ sung thức ăn mới theo tỉ lệ cao hơn và vẫn tận dụng thức ăn cũ.

Kỹ thuật nuôi dòi by Sưu tầm và Tổng hợp.


Đăng ký: Bài đăng

Thứ Ba, 14 tháng 7, 2020

Thông tin Chanh giấy không hạt Limca

kythuatnuoitrong.com @ nguontinviet.com


Nhiều nhà vườn ở các tỉnh Vĩnh Long, Cần Thơ, Long An, Hậu Giang rất thành công với mô hình trồng chanh không hạt. Sản phẩm được tiêu thụ mạnh tại các siêu thị ở Cần Thơ và TP.HCM, đã đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Giống chanh Giấy Limca, chanh-limca-giong

- Từ những năm 2000, Tiến sĩ Nguyễn Thị Đào, Giám Đốc Công Ty TNHH. TM. Nguyên Nông (GINO) đã sưu tập và liên kết với Vườn cây giống CLC. ISLAND khảo nghiệm xác định năng suất, chất lượng và tính ổn định giống Chanh Limca không hạt ít gai và đã sản xuất đại trà cây giống chất lượng cao cung cấp cho nhiều nhà vườn ở Đồng Bằng sông Cửu Long, miền Đông Nam bộ và nhiều nơi khác.

- Cây Chanh Limca không hạt ít gai trồng sau 18 tháng là cho trái. Cây có thể cho trái quanh năm. Giai đoạn cây cho trái ổn định có thể đạt 50 – 70 tấn/Ha/năm. Trọng lượng trái bình quân 80- 120 gam, vỏ mỏng màu xanh sáng, nhiều nước và vị chua có mùi thơm. Mỗi Ha trồng bình quân 700 – 750 cây.

- Thời gian khai thác kinh tế bình quân 12 năm. Giá bán sĩ tại vườn bình quân 11.000 đồng/ký, giá nghịch vụ vừa qua đến 27.000 đồng/ký.


- Ưu điểm của cây chanh Limca là sức sinh trưởng nhanh, kháng bệnh tốt, nhất là tính chống chịu bệnh vàng lá gân xanh như các loại cây có múi khác. Trồng chanh Limca chi phí đầu tư không cao, chăm sóc cũng không khó.

- Cây chanh giấy Limca là giống cây ăn trái có nhiều tiềm năng và cơ may trên thị trường thờ kỳ hội nhập.

Nguồn Tin Việt | Nông Nghiệp  Đăng ký: Bài đăng

Thứ Năm, 9 tháng 7, 2020

Đặc điểm sinh học cá chép Nhật



I. Tổng quan

Hiện nay, trên thị trường cá cảnh tại TP. Hồ Chí Minh có rất nhiều chủng loại, trong đó cá chép Nhật là một trong những đối tượng được người chơi cá cảnh quan tâm, bên cạnh mặt độc đáo về màu sắc, hình dáng thì nó còn được xuất khẩu mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người sản xuất. Những loài cá đang được ưa chuộng như: Chép Koi, Koi bướm (chép Nhật đuôi bướm, chép vây dài, chép rồng). Trong thực tế cá Koi được bán trong nước có khoảng cách chất lượng khá xa so với tiêu chuẩn chung của cá Koi vì các nghệ nhân chưa làm chủ công nghệ di truyền và chọn lọc kiểu hình để sản xuất các dòng cá Koi có chất lượng màu sắc đẹp và ổn định.


II. Đặc điểm sinh học

2.1 Phân bố

Cá Chép có phân bố tự nhiên ở cả châu Âu và châu Á.

2.2 Phân loại

Theo Mills, 1993 cá chép Nhật được phân loại như sau:

- Bộ Cypriniformes (Bộ cá chép)

- Họ Cyprinidae (Họ cá chép)

- Giống Cyprinius

- Loài Cyprinus sp.

+ Tên tiếng Việt: – Chép koi; Chép nhật; cá Koi; Koi bướm; Chép Nhật đuôi bướm; Chép vây dài; Chép rồng.

+ Tên tiếng Anh: Ornamental common carp; Koi; Nishikigoi.

2.3 Đặc điểm sinh thái

- Cá chép Nhật sống ở vùng nước ngọt, ngoài ra còn có thể sống trong môi trường nước có độ mặn đến 6‰.

- Hàm lượng oxy trong bể nuôi tối thiểu: 2,5mg/l.

- Độ pH = 4 – 9, (thích hợp nhất: pH = 7 – 8).

- Nhiệt độ nước: 20 – 27 độ C.

2.4 Hình dạng bên ngoài

- Đặc điểm chung của chép Nhật là có nhiều màu sắc đẹp phối hợp từ các màu cơ bản như: trắng, đỏ, đen, vàng, cam. Theo kết quả khảo sát kiểu hình cá chép Nhật sản xuất trong nước của Đỗ Việt Nam (2006) và Trần Bùi Thị Ngọc Lê (2008) đã thống kê khoảng 36 dạng kiểu hình, tuy nhiên nhiều kiểu hình trong số này có tần số xuất hiện rất thấp.

- Cách gọi tên cá chép Nhật, cá Koi trên thị trường dựa vào màu sắc, hoa văn trên thân và kiểu vây đuôi (ví dụ: cá chép Cam đuôi dài, cá chép 3 màu đuôi ngắn, cá chép trắng đỏ đuôi dài).

- Hiện nay, cá chép có 2 nhóm chính:

+ Cá chép đuôi dài: gọi là chép Nhật.

+ Cá chép đuôi ngắn: gọi là chép Koi.


2.5 Đặc điểm dinh dưỡng

- Cá chép Nhật là loài cá ăn tạp, cá 03 ngày tuổi tiêu hết noãn hoàng và bắt đầu ăn thức ăn bên ngoài như: Bo bo và các loài động phiêu sinh khác, cũng có thể ăn lòng đỏ trứng chín.

- Cá được 15 ngày tuổi bắt đầu chuyển tính ăn, ăn động vật đáy do đó trong giai đoạn này tỉ lệ sống bị ảnh hưởng lớn. Trong điều kiện nuôi, chúng ta phải cung cấp thức ăn bên ngoài như trùn chỉ, cung quăng, hoặc gây nuôi các động vật phiêu sinh và động vật đáy để có thể cung cấp tốt nguồn thức ăn tự nhiên cho cá … Nguồn thức ăn tự nhiên trong giai đoạn này có vai trò quyết định đến tỉ lệ sống của cá.

- Cá khoảng một tháng tuổi trở đi ăn thức ăn giống như cá trưởng thành, ăn tạp thiên về động vật như giun, ốc, trai, ấu trùng, côn trùng. Cá còn ăn phân xanh, cám, bã đậu, thóc lép và các loại thức ăn tổng hợp dưới dạng viên hoặc sợi.

2.6 Đặc điểm sinh trưởng

Cá có tốc độ tăng trưởng nhanh, sau 1 – 2 tháng ương cá đạt chiều dài 3 – 4 cm/con, trong khoảng 6 – 8 tháng nuôi cá đạt 20 – 30 cm/con.

2.7 Đặc điểm sinh sản

- Tuổi thành thục của cá chép từ 12 tháng đến 18 tháng. (trong tự nhiên là 12 tháng còn trong nuôi là 18 tháng).

- Mùa vụ sinh sản chính là mùa mưa nhưng hiện nay do cá chép đã được thuần hóa nên có thể sinh sản tốt quanh năm.

- Tương tự như cá Vàng, cá chép Nhật không chăm sóc trứng và có tập tính ăn trứng sau khi sinh sản.

- Sức sinh sản tương đối thực tế của cá vào khoảng 97.000 trứng/kg trọng lượng cá. Tuy nhiên sức sinh sản này còn tùy thuộc vào điều kiện nuôi, chế độ dinh dưỡng và các yếu tố môi trường khác. Thời gian phát triển phôi khoảng 8 – 42 giờ ở nhiệt độ nước 26 – 31độ C.

- Ngoài tự nhiên: cá đẻ ở vùng nước tù có rễ cây, cỏ thủy sinh, độ sâu khoảng 1 mét. Trong điều kiện nhân tạo: có giá thể là rễ cây lục bình hoặc xơ ny lông, nước trong, sạch và mát, nếu có điều kiện tạo mưa nhân tạo.

- Đặc điểm của trứng: trứng dính, hình tròn, đường kính: 1,2 – 1,3 mm, màu vàng trong, sau khi cá đẻ khoảng từ 36 – 48 giờ ở nhiệt độ 28 – 30 độ C thì trứng sẽ nở.

- Trong điều kiện nuôi ở nước ta, thời gian tái phát dục của cá đực khoảng 15 ngày, của cá cái khoảng 20 – 30 ngày. Thời gian tái phát dục của cá còn tùy thuộc vào bản thân loài và điều kiện sống, mùa vụ …




Đăng ký: Bài đăng

Thứ Bảy, 4 tháng 7, 2020

Kỹ thuật trồng Nấm Mộc Nhĩ



I. Đặc tính sinh học

- Nấm Mộc nhĩ có 3 loại chính: mộc nhĩ màu đen có lông, màu hồng thịt không có lông và màu trắng. Mộc nhĩ còn có nhiều loại khác nhau: loại cánh mỏng, loại cánh dày. Mộc nhĩ là loại nấm ăn mọc phổ biến ở vùng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Các yếu tố của môi trường ảnh hưởng rất lớn đến khả năng phát triển của mộc nhĩ như: nhiệt độ, ẩm độ, độ chiếu sáng, độ pH…

- Nhiệt độ thích hợp nhất 20 – 30 độ C.

- Độ ẩm cơ chất: 60 – 65%.

- Độ ẩm không khí: 90 – 95%.

- Môi trường có pH từ 4 – 12.

- Giai đoạn phát triển sợi trong cơ chất, cần đảm bảo không khí thông thoáng. Giai đoạn mọc thành nấm thì giữ cho độ thoáng ở mức vừa phải.

- Ánh sáng: Thời kỳ ủ sợi không cần ánh sáng. Tới khi cây mộc nhĩ mọc tăng dần lượng ánh sáng và giữ ở mức ánh sáng đọc sách được.

- Sử dụng nguồn dinh dưỡng là celluloz trực tiếp.

II. Kỹ thuật trồng nấm mộc nhĩ

1. Trồng nấm mộc nhĩ trên mùn cưa

1.1 Thời vụ trồng

Điều kiện ở tỉnh ta có thể trồng mộc nhĩ quanh năm.

1.2 Xử lý nguyên liệu

a) Tiêu chuẩn nguyên liệu:

- Có thể trồng mộc nhĩ trên các loại mùn cưa khác nhau. Tốt nhất là mùn cưa cây cao su hoặc mùn cưa bồ đề. Không dùng mùn cưa đã bị mốc, mùn cưa các loại cây có tinh dầu hoặc các loại cây gỗ cứng.

- Mùn cưa mới dùng ngay là tốt nhất. Nếu dùng dần phải phơi khô, tránh để lên men hoặc bị ẩm, mốc gây mùn hóa làm mất chất dinh dưỡng.

b)Tạo ẩm, phối trộn nguyên liệu, đóng túi:

- Nếu dùng mùn cưa đặc chủng như bồ đề, cao su… thì tạo ẩm mùn cưa bằng nước sạch, ủ thành đống, che đậy bằng nilon để mùn cưa ngấm đủ nước và trương nở các tế bào gỗ. Sau vài ngày tiến hành phối trộn nguyên liệu theo tỷ lệ: Mùn cưa đã tạo ẩm 100kg; Bột nhẹ (CaCO3) 1kg hoặc vôi bột 0,5kg; MgSO4: 0,1 kg.

- Trộn thật đều nguyên liệu với bột nhẹ hoặc vôi bột, kiểm tra độ ẩm đạt 65%, ủ đống 2 – 3 ngày, đảo đống ủ, ủ tiếp 2 – 3 ngày, sau đó tiến hành đóng túi nilon (loại túi PP chịu nhiệt), kích thước túi: 19 x 37cm. Túi có hình dáng một khúc gỗ cao 20 – 22cm, có cổ nút, nút bông và nắp đậy. Nếu cây giống bằng que phải dùi một lỗ ở giữa.

- Nếu dùng mùn cưa gỗ tạp tiến hành phối trộn nguyên liệu theo tỷ lệ:

+ Mùn cưa đã tạo ẩm: 100kg.

+ Đạm Urê: 0,5 kg

+ Supe lân: 1 kg.

+ Bột nhẹ (CaCO3): 1 kg.

+ MgSO4: 0,1 kg.

- Ủ đống khoảng 15 – 20 ngày, đảo 1 – 2 lần, trộn đều với bột nhẹ hoặc vôi bột và 3 – 5kg cám gạo, sau đó đóng túi.

c)Cách đóng túi mùn cưa: Cho mùn cưa vào dần, vào đến đâu dồn chặt đến đấy (chừa phía trên 5 – 7cm để luồn cổ bịch). Sau đó túm đầu nilon và cho luồn qua cổ bịch, bẻ quặt xuống để cổ bịch nằm giữa hai lớp nilong. Dùng dây chun buộc chặt cổ bịch lấy bông không thấm nước vê tròn thành nút và nút chặt vào cổ bịch, đậy nắp lại.

d) Hấp khử trùng túi mùn cưa:

- Hấp trong thùng phuy (hấp cách thủy), thời gian từ 10 – 12 giờ, nhiệt độ trong giữa túi mùn cưa đạt từ 95 – 100 độ C.

- Nếu có nồi áp suất, hấp ở nhiệt độ : 120 – 125 độ C trong thời gian từ 120 – 180 phút.

- Để triển khai sản xuất lớn, ta dùng phương pháp hấp trong hơi nước bão hòa, thời gian từ 9 – 10 giờ bằng cách xây lò. Mỗi mẻ hấp có thể hấp từ 600 – 800 túi mùn cưa, tùy theo thể tích của buồng hấp nhỏ hay lớn.

1.3 Cấy giống

- Sau khi đã hấp, chuyển túi mùn cưa ra phòng cấy, để nguội rồi tiến hành cấy giống:

+ Cách 1: Nếu sử dụng giống làm trên hạt thì dùng que sắt khều giống từ lọ hoặc túi giống sang túi mùn cưa lắc đều lên trên bề mặt túi. Tỷ lệ giống cấy 1,2% so với trọng lượng túi mùn cưa.

+ Cách 2: Nếu sử dụng giống làm trên que thì dùng panh vô trùng kẹp nhẹ tàng que giống chuyển sang các lỗ cấy giống đã dùi từ trước trong túi mùn cưa cấy 1 que giống, đầu trên của que giống sát với lề mặt túi mùn cưa.

- Quá trình cấy giống phải làm trong phòng kín, sạch sẽ và thao tác trên ngọn lửa đèn cồn. Sau khi cấy giống chuyển các túi mùn cưa vào phòng ươm sợi.

1.4 Ươm và rạch bịch

a) Ươm sợi: Phòng ươm sợi phải sạch sẽ, thông thoáng và có giàn nhiều tầng (4 – 5 tầng), mỗi tầng cách nhau 50cm hoặc có thể treo (xỏ) thành xâu để tăng diện tích sử dụng. Nhiệt độ phòng ươm sợi thích hợp nhất là 25 – 30 độ C và không cần ánh sáng. Thời gian ươm sợi kéo dài từ 20 – 25 ngày. Khi tơ nấm đã kéo trắng bịch, tiến hành rạch bịch và mang treo.

b) Rạch bịch:

- Dùng dao nhọn, sắc, rạch 6 – 8 đường xung quanh, khoảng cách giữa các đường rạch đều nhau, chiều dài vết rạch 3 – 4cm và sâu 1 – 2 mm.

- Lưu ý chỉ rạch bịch, không nên rạch sâu vào cơ chất của bịch, nên rạch theo đường thẳng đứng hoặc theo đường xoắn ốc quanh bịch.

c) Treo bịch: Úp miệng túi quay xuống phía dưới và đặt bịch cách nhau 15 – 20 cm để khi nấm ra không chạm vào nhau, mỗi dây treo được 7 – 8 túi có độ cao 1,5 – 1,6m. Cách treo và bố trí làm sao để thuận tiện cho việc tưới nước, vệ sinh, chăm sóc và thu hái.

1.5 Chăm sóc và thu hoạch

a) Chăm sóc:

- Khi mộc nhĩ bắt đầu mọc, ta phải tưới nước và tưới liên tục. Mỗi ngày tưới 4 – 5 lần. Cách tưới tốt nhất là dùng bình bơm và phun sương lên mặt túi. Hạt nước nhỏ, đều sẽ tạo ẩm cho cả khu vực và ngầm dần qua vết rạch để vào túi. Lượng nước tưới nhiều hay ít phụ thuộc vào thời tiết và khả năng ra nấm.

- Khi vực nhà nuôi trồng cần kín gió nhưng cũng cần có ánh sáng nhẹ. Luôn giữ độ ẩm trong phòng đạt trên 80% để mộc nhĩ không bị khô héo.

- Nước tưới yêu cầu phải là nước sạch. Chăm sóc tốt sau vài ngày mộc nhĩ đã đạt kích thước đủ lớn, tiến hành thu hái.

b) Thu hoạch:

- Hái cả cụm rồi tách ra từng cây riêng biệt, làm nhẹ nhàng tránh giập nát cánh mộc nhĩ. Đem mộc nhĩ rửa và cắt sạch phần gốc có bám mùn cưa. Khi phơi nên phơi trên giàn bằng tre, nứa để mộc nhĩ khô dần, đẹp mã.

- Thu hái theo lứa, mỗi lứa khoảng 10 ngày. Sau khi hái nghỉ tưới 3 – 5 ngày, nhưng vẫn duy trì độ ẩm của môi trường sau đó chăm sóc như lứa đầu để tiếp tục thu hái các lứa tiếp theo. Giai đoạn thu hoạch kéo dài 30 – 45 ngày. Khi kết thúc một đợt nuôi trồng phải dọn sạch các túi mùn cưa và vệ sinh khi vực nuôi trồng.

2. Trồng nấm mộc nhĩ trên thân cây gỗ

2.1 Chọn gỗ và nhà xưởng

- Có rất nhiều loại gố có thểt rồng mộc nhĩ. Tuy nhiên các loại gỗ có nhựa mủ màu trắng, thân gỗ mềm xốp, không độc, không có tinh dầu thì trồng mộc nhĩ tốt nhất.

- Trồng trên cây tươi, sau khi chặt cây độ 5 -7 ngày. Các đoạn thân có đường kính từ 5cm trở lên, tốt nhất là các đoạn có độ dài 1,2 – 1,5m và có đường kính từ 10 – 20cm. Các đoạn gỗ trên được đưa vào nhà xưởng hoặc những nơi tập trung, nơi che được mưa nắng, kín gió và nền sạch sẽ, dễ thoát nước.

2.2 Dụng cụ và giống

Để trồng mộc nhĩ trên thân cây gỗ cần chuẩn bị các dụng cụ:

- Bua chuyên dụng để tạo lỗ trên thân cây (có thể dùng khoan, dùng đục để thay thế búa).

Loại búa này, ở phần đầu có mũi khoan và có đường thông để phơi gỗ bật ra ngoài. Đường kính của mũi khoan từ 1,5 – 2cm. Dùng búa chuyên dụng vừa nhẹ nhàng, dễ dàng, hiệu suất cao mà kỹ thuật lại đảm bảo.

- Bình tưới nước hoặc phun nước, vật che phủ đống ủ.

- Giống nấm: phải đạt tiêu chuẩn (đúng tuổi, không non, không già, không bị nhiễm bệnh).

2.3 Cách trồng

- Nhúng hai đàu đoạn gỗ sau khi đã chặt vào dung dịch nước vôi đặc. Các chỗ sây xát cũng được bôi nước vôi. Loại bỏ tất cả các đoạn gỗ đã bị nấm mốc, hoặc sâu bệnh đục phá bên trong, chất gỗ khoảng 7 ngày, chuẩn bị cấy giống.

- Đục lỗ vào thân cây, hàng cách hàng 7 – 8 cm, lỗ cách lỗ 12 – 15cm, mỗi lỗ sâu 2,0 – 2,5 cm, đường kính 1 – 2cm, nên đục so le nhau.

- Tra giống vào đầy 2/3 lỗ đã đục, dùng phoi gỗ đạy lên và trám ciment đặc hoặc đất sét sạch cho kín lỗ tránh kiến, chuột ăn giống.

- Sau khi đã tra giống, xếp gỗ vào nhà ươm. Kê gạch để gỗ cách nền 15 – 20cm, xếp theo hình khối cao 1,5m, dài tùy ý. Trên cùng phủ một lớp phủ đã được làm ướt. Hàng ngày tưới đủ ẩm lớp phủ ngoài đống ủ. Khoảng 15 – 20 ngày tiến hành đảo đống ủ và kiểm tra xem giống mộc nhĩ có mọc loang ra hay không, ủ tiếp khoảng 15 – 20 ngày nữa. Sau giai đoạn này nấm bắt đầu mọc ra.

2.4 Chăm sóc

Việc tưới nước như trồng mộc nhĩ trên mùn cưa, cứ khoảng 15 – 20 ngày thì tiến hành đảo gỗ một lần. Đảo đều từ trên xuống, dưới lên, trong ra ngoài và ngoài vào trong… làm sao đảm bảo độ ẩm đồng đều cho mọi phía của khúc gỗ và cả đống gỗ. Cần điều chỉnh ánh sáng sao cho cây mộc nhĩ có mầu nâu sẫm.

2.5 Thu hái

- Chọn những cây nấm to, mép xoăn hái trước. Những cây nhỏ để lại.

- Quá trình thu hái kéo dài khoảng 6 – 8 tháng.

3. Một số loại sâu bệnh hại mộc nhĩ và cách phòng chống

- Trong quá trình trồng mộc nhĩ trên túi mùn cưa thwòng xuất hiện một số bệnh như mốc xanh, mốc vàng hoa cau, mốc đen. Các loại mốc này phát triển đồng thời với sợi nấm, chúng có thể làm chất hàng toàn sợi nấm.

- Nguyên nhân chủ yêu do xử lý nhiệt cho nguyên liệu chưa được đảm bảo. Ngoài ra độ ẩm trong túi mùn cưa quá cao.

- Để phòng chống các bệnh trên cần phải coi trọng khâu xử lý nguyên liệu hấp khử trùng, chế độ tưới nước, phòng nuô trồng phải vệ sinh thường xuyên và giữ cho thoáng mát. Nếu thấy bệnh xuất hiện thì phải cách ly chúng ra khỏi khu vực nuôi trồng, nhất là trong giai đoạn ươm sợi để tránh lây lan.

- Đối với mộc nhĩ trồng trên thân cây gỗ, thời kỳ đầu khi ươm thường có kiến, chuột đào bớt các lỗ để moi giống ra ăn, nên tìm cách xua đuổi hoặc tiêu diệt chúng.

- Một số loại nấm mốc, đặc biệt là mốc xanh và bệnh “rễ tre”, rất khó loại trừ; tốt nhất nếu phát hiện thì tiến hành cách ly ngay.

Kỹ thuật trồng nấm mộc nhĩ by Cty Thông Tấn.

kythuatnuoitrong@ nguontinviet.com

Thứ Sáu, 3 tháng 7, 2020

Giá lúa thấp hơn giá ốc bươu vàng



Giá lúa thấp hơn giá ốc bươu vàng


Đọc bản tin này tôi không thể không nghĩ đến và ngậm ngùi cho thân phận của bà con nông dân ở quê tôi, nơi mà giá lúa đang bị hạ thấp đến độ vô lý, nhưng không ai chịu trách nhiệm. Vấn đề không ở chỗ giá lúa cao quá hay thấp quá mà ở tính hợp lý và hài hoà lợi ích của giá đó, và mọi sự bất hợp lý, không hài hoà của chính sách – gắn với chính khách, đều phải có cơ chế để đặt vấn đề trách nhiệm.
nongdan24g @ nguontinviet.com

Ốc bươu vàng hại lúa bán còn được giá hơn lúa. An ninh lương thực ở đâu?
Ốc bươu vàng hại lúa bán còn được giá hơn lúa. An ninh lương thực ở đâu?


Ốc bươu vàng hại lúa bán còn được giá hơn lúa. An ninh lương thực ở đâu? Ốc bươu vàng hại lúa bán còn được giá hơn lúa. An ninh lương thực ở đâu? Quê tôi ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đó là vùng đất được ví von là vựa lúa của Việt Nam, và có thể là một vựa lúa lớn trong vùng Đông Nam Á. Để có cái danh hiệu đó, người dân quê tôi phải bán mặt cho đất bán lưng cho trời trên những cánh đồng.

Suốt năm này sang năm khác, người nông dân ở đây phải đương đầu với rất nhiều thiên tai, thảm hoạ, và vì thế cuộc sống của họ càng ngày càng chật vật hơn.

Vài năm trước, vùng ĐBSCL kinh qua một thảm nạn có tên là “ốc bươu vàng”. Đó là loại ốc do ai đó vì lý do nào đó đã “du nhập” từ Trung Quốc hoặc Đài Loan về Việt Nam. Những con ốc sinh sôi nảy nở với tốc độ chóng mặt. Chúng cũng tàn phá ruộng lúa theo tốc độ cấp số nhân. Những cây lúa chưa kịp lớn đã bị chúng “cắt” ngang.

Trong một thời gian dài, nông dân quê tôi khốn đốn với chúng, nhìn lúa bị huỷ hoại mà không làm gì được. Có năm, như 2010, có hàng chục ngàn hecta bị chúng phá sạch. Chẳng ai chịu trách nhiệm.

Trong khi đó thì người dân phải tìm cách đối phó. Đến vài năm sau người ta mới tìm thấy “tác dụng” của ốc bươu vàng: làm thức ăn cho vịt. Thế là bà con nông dân, kể cả trẻ con, đi ruộng bắt ốc bươu vàng bán cho các trại nuôi vịt. Nhưng ốc bươu vàng được xem là thứ “rác rưởi”, như cây cỏ, nên giá bán cũng rất thấp.

Nhưng điều trớ trêu ngày nay là ốc bươu vàng có giá trị hơn… lúa. Lần đầu tiên trong lịch sử, giá lúa rẻ hơn giá ốc bươu vàng! Khi nghe bà con chòm xóm bàn tán và so sánh một cách hài hước, tôi nghĩ họ chỉ nói đùa cho vui.

Nhưng không, lúa ở quê tôi (và vùng ĐBSCL nói chung) có giá trị thấp hơn ốc bươu vàng. Đó là một thực tế. 1kg ốc bươu vàng giá 15.000 đồng. 3kg lúa chỉ khoảng 10.000 – 12.000 đồng.

3kg lúa không bằng 1kg ốc bươu vàng. Tôi không biết có nơi nào mà người ta có thể ăn ốc bươu vàng thay cho gạo.

Tôi cũng không biết có nơi nào trên thế giới mà giá lúa thấp hơn giá ốc bươu vàng, vốn được xem là một loại rác sinh học.

Người nông dân quê tôi vốn nghèo nay càng nghèo hơn. Trước khi sạ lúa, bà con đã phải vay tiền (từ ngân hàng hay bạn bè, thân nhân) để mua phân bón, thuốc trừ sâu. Giá phân bón và thuốc trừ sâu lúc nào cũng gia tăng theo thời gian.

Thành ra, bây giờ khi thu hoạch lúa xong, với cái giá bèo đó thì họ hoặc là lỗ hoặc là huề vốn. Có người sau một mùa vụ thì trắng tay vẫn hoàn trắng tay. Tình trạng này rất nhất quán với con số của tổng cục Thống kê, rằng trong số những người nghèo nhất nước, 83% là nông dân. Đó là con số đáng báo động.

Chính phủ có nghị quyết “về đảm bảo an ninh lương thực quốc gia” và “đảm bảo người sản xuất lúa gạo có lãi trên 30% so với giá thành sản xuất”. Con số lời 30% có lẽ ru ngủ nhiều người và đẹp trên trang giấy, nhưng trong thực tế thì giá lúa tính chung giảm 30% từ năm 2011 – 2012. Sở dĩ có tình trạng này là do người nông dân bị ép giá khi mới thu hoạch.

Vì phải thanh toán nợ nần nên họ đành phải bán lúa dưới giá sàn. Hậu quả là những con thương hưởng lợi. Thống kê cho thấy trong hai năm 2008 – 2009, Việt Nam xuất khẩu gần 11 triệu tấn gạo trị giá 5,5 tỉ USD, và tính trung bình giá xuất khẩu là 10.360 đồng/kg.

Trong khi đó giá mua thì chỉ 7.000 đồng/kg. Như vậy, giá xuất khẩu và giá mua chênh lệch đến 3.360 đồng/kg lúa!

Ai là người hưởng lợi? Để trả lời câu hỏi này, có thể nhìn qua quy trình buôn bán lúa và xuất khẩu gạo. Xong mùa vụ, nông dân bán lúa cho các thương lái nhỏ (thường đi bằng ghe trên sông). Các thương lái nhỏ này bán cho thương lái lớn.Trong quá trình đó lúa có thể bị pha trộn và giảm chất lượng.

Thêm vào đó là chính sách tạm trữ lúa gạo của Nhà nước vô hình trung tạo cơ hội cho các doanh nghiệp mua lúa và tạm trữ. Các doanh nghiệp này, dù đã được hưởng lợi từ Nhà nước, chọn thời điểm để ép giá lúa, và hệ quả là người nông dân lãnh đủ.

Đã có người đề cập đến “nhóm lợi ích nông nghiệp”, và đã đến lúc phải xác minh và nhận dạng nhóm này để thực thi nghị quyết của Chính phủ.

Với tình trạng như thế thì chẳng ai ngạc nhiên khi thấy cha mẹ “quyết không để con làm ruộng”. Thu nhập của nông dân nếu tính ra còn thấp hơn thu nhập của công nhân trong các hãng xưởng.

Do đó, không ai ngạc nhiên khi phụ nữ xếp hàng đi lấy chồng Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc (một số thì bị chết thảm), và vấn nạn này là một quốc nhục.

Trong khi đó, nam thanh niên thì đi lang bạt làm thuê ở các khu kỹ nghệ khắp nước. Có nơi (như Thới Bình, Cà Mau) chỉ trong vòng sáu tháng có hàng ngàn thanh niên bỏ huyện đi làm ở các tỉnh khác. Ngày nay, đến mùa gặt lúa nông thôn rất khó tìm nhân công.

Thêm vào đó là sự tăng trưởng dân số cộng với sự thiếu quy hoạch, đã gây nên sức ép môi trường ghê gớm. Hệ quả là môi trường sống và môi trường canh tác càng ngày càng xấu đi một cách nghiêm trọng. Ở quê tôi, không ai dám tắm sông. Có thể nói không ngoa rằng nền tảng nông thôn vùng ĐBSCL đã và đang lung lay.

Những người dân thuộc vùng ĐBSCL đã đưa Việt Nam thành một trong những nước xuất khẩu gạo và nông sản hàng đầu thế giới. Họ đã đóng góp và đem về cho ngân sách hàng tỉ USD mỗi năm. Ấy thế mà người dân vùng ĐBSCL bị thiệt thòi nhất nước.

Đánh giá qua bất cứ chỉ tiêu nào (giáo dục, y tế, cơ sở hạ tầng, đường sá, nhà ở, v.v.), ĐBSCL thường đứng hạng chót hay áp chót. Đối với người dân ở đây, câu nói ĐBSCL là “vùng đất trù phú” chỉ là huyền thoại và là một sỉ nhục.

Một quan chức cao cấp thuộc vùng ĐBSCL từng giải thích sự sa sút của vùng đất lúa gạo này: “ĐBSCL ở xa Trung ương quá, lâu lâu bộ mới vào một lần. Trung ương mà không sớm thay đổi chính sách, bỏ rơi thì miền Tây không thoát nghèo được”. Có lẽ chính vì “xa mặt trời” nên tình trạng lúa có giá trị thấp hơn ốc bươu vàng ở vùng ĐBSCL chẳng ai chú ý và chịu trách nhiệm.

Không chỉ rẻ hơn giá ốc bơm vàng, giá lúa tại ĐBSCL chỉ ngang bằng với giá rơm – thứ phế phẩm lâu nay chỉ dùng để đốt hoặc làm thức ăn cho trâu, bò khiến nhiều gia đình trồng lúa chỉ để… thu rơm.

“Trồng lúa nếu chỉ bán thóc thì dân vùng này thua lỗ nhiều lắm. Cái khó ló cái khôn, người dân dùng rơm để tăng đàn bò. Hầu như hơn 1.000ha đất lúa ở vùng này, sau khi thu hoạch thì rơm rạ đều được thu hoạch để dự trữ cho bò. Vụ đông xuân, rơm có giá đến 7 triệu đồng/ha. Vụ hè thu do có mưa, chất lượng rơm hơi kém nên giá thấp hơn chút đỉnh” – Ông Trần Văn Nở – Phó Chủ tịch UBND xã Tân Xuân (huyện Ba Tri, Bến Tre) cho biết.

Theo tính toán của người dân Tân Xuân, mỗi vụ lúa tiền lãi từ hạt thóc đang thấp hơn rất nhiều so với “đồ bỏ đi” là rơm rạ.

“Mấy vụ lúa vừa rồi ai làm huề vốn là may rồi. Như nhà tôi thu rơm về nuôi bò, thì nhờ rơm mới lời 30% chứ không phải là nhờ hạt lúa. Nếu lúa bán không được, thì đừng nói cho vịt, chúng tôi xay ra cho bò ăn cũng được, vì dù gì bò sữa cũng cần bổ sung thức ăn giàu tinh bột” – Lão nông Cao Văn Em – ngụ ấp Tân Thị, xã Tân Xuân cho biết.

Cũng vì thế mà vài năm nay, thu hoạch xong thay vì đốt rơm để vệ sinh ruộng đồng thì nông dân thường tận thu bằng cách bán luôn rơm ngay tại ruộng.

Rơm khô được người ta thu mua về làm nấm rơm, chế biến các sản phẩm thủ công, chất thành cây dự trữ cho trâu bò ăn.

Đối với nhiều vựa mua bán rơm chuyên nghiệp, thứ tưởng chừng như vứt đi này được bán để lót các sản phẩm gốm sứ cao cấp, hoặc bán cho các doanh nghiệp mua bán trái cây.

(Theo Danviet) Nguyễn Văn Tuấn/SGTT





Đăng ký: Bài đăng

Thứ Năm, 2 tháng 7, 2020

Hấp dẫn trang trại cà phê chồn - nongthonviet.com

nongdan24g @ nguontinviet.com


Sau một thời gian khảo sát tìm hiểu, ông Nguyễn Quốc Minh từ TP.HCM đã quyết định lên Đà Lạt (Lâm Đồng) đầu tư 42 tỷ đồng để xây dựng trang trại trồng cà phê sạch – nuôi chồn và sản xuất chế biến cà phê chồn.

Ghé thăm trang trại cà phê của ông Nguyễn Quốc Minh tại số 135E Hoàng Hoa Thám, phường 10, TP.Đà Lạt, chúng tôi được nghe ông kể về huyền thoại cà phê chồn cũng như ấp ủ hình thành trang trại của mình.










Hạt cà phê dưới tác dụng của các enzyme trong dạ dày chồn hương sẽ có hương vị đậm đà hơn.

Hạt cà phê dưới tác dụng của các enzyme trong dạ dày chồn hương sẽ có hương vị đậm đà hơn.


Bạn Nên Xem:

Bài Viết Liên Kết

Translate

Mạng Nội Trợ

Nguồn Tin















Nguồn Tin Cập Nhật

Danh Mục

'Striped Toga' @Actinidia @Alangium @Apiaceae @Arachis @Artemisia @Asteraceae @Bách lí hương @bacha @Bignoniaceae @Cà rốt @Camquy @Caprifoliaceae @Caragana @Carrot @câu kỷ tử @Celosia @Cornaceae @Cucurbita @Eggplant @Ericaceae @Fabaceae @Glycine @Haemodoraceae @hatgiongdau @Lamiaceae @Lathyrus @maca @Malva @Mentha @Papaver @Phaseolus @sam maca peru @Solanaceae @Strelitzia @Thachnam @Vicia &docdao #Actinidiaceae #Amaryllidaceae #Asteraceae #Bacha #CayAnTrai #caybatmoi #Caycanh #caygiavi #caylaunam #caytihon #dayleo #duocpham #Fabaceae #giavi #hatgiong #hatgiongbaubi #hatgiongcachua #hatgiongdau #hatgionghoa #hatgiongrau #hiemla #hoa #HoBacHa #hocuc #Hương liệu #Lamiaceae #Mentha #nhaptuMy #Solanum #thaoduoc #thitruong #thucpham #Thực phẩm #tintuc #trangtri #trathaoduoc #Trị bệnh #tribenh #trongcay +Bí +Daucus +Đậu +Pumpkin +Trifolium Acmella oleracea ACT00087 Actinidia chinensis Aeonium ALA00094 Alangium platanifolium Alexandria Squash ALL00069 Allium Allium Schoenoprasum Ammi Dara Amorphophallus Amorphophallus Bulbifer ANI00089 Anigozanthos flavidus Apple of Sodom Aquaponics ARA00097 Arachis hypogaea ART00095 Artemisia dracunculus Asclepias Asclepias curassavica Asteraceae ăn kiêng Bạc hà Bạc hà á Bạc hà Âu Bạc hà chanh Bảo thạch Ba tư Bầu Bầu bí Bầu Hồ Lô Bầu Khổng Lồ Bầu Rắn Bells of Ireland Bells-of-Ireland bệnh sốt rét bệnh thối trái bệnh tiểu đường Bí Bí Hooligan Bí khổng lồ bí mì Ý Bí ngòi Bí ngòi Alexandria Bí ngón tay bí ngồi Bí Porcelain Doll Bí rợ Bí rợ da ếch Bí Spaghetti Tivoli Bí tam giác biến đổi khí hậu Bình tử thảo Bird-of-paradise bird's nest bishop's lace Bladderworts Bliss Pumpkin Blog Bloomsdale Longstanding blue daisy Bonsai bột maca Cà Cá chạch đồng Cá chẽm cá chép Nhật cá chim vây vàng Cà Chua Cà Chua Xanh cá điêu hồng cá lóc cá Mú cà phê chồn Cà rốt Cà rốt dại cá sấu cà tím Cà tím Suraj Cải Cải bó xôi cải cầu vồng Cải xoong cam Canada CAR00077 CAR00098 Caragana arborescens Caraway Carrot Seed Atlas Carum Carum carvi cẩm quỳ Cần tây Câu kỷ tử Cây ăn Quả cây bắt mồi cây bông tai Cây Carum Cây gia vị cây giống hồng socola Cây gọng vó Cây hồng Cây kế sữa Cây Kiwi Cây lâu năm Cây nắp ấm cây ngô đồng cây ngô thi Cây nhãn cây sưa Cây Thuốc Cây trúc Cây Trường sinh Cây vú sữa Celosia Tornado chamomilla chanh không hạt Chân kanguru đỏ Cherry chi Bông tay Chi Việt quất Chicory Chives Grolau Chôm chôm chống muỗi Chùm ớt chuối chuối hột Chuối rẻ quạt Chữa bệnh chữa ho Cichorium intybus Cỏ Cỏ ba lá đỏ cỏ cà ri Cỏ xạ hương Common Thyme Corn Poppy Cow's Udder Crassulaceae Củ nén Cua Đinh Cúc Cúc áo hoa vàng Cúc Bạc Hà CUC00115 CUC00121 CUC00122 CUC00127 Cucamelon Cucumber Cucumis sativus Cucurbita Cucurbita maxima Cucurbita moschata CUC00130 Cucurbita pepo Cucurbita pepo CUC00124 DAU00074 Daucus Daucus carota dầu maca Dây Leo dinh dưỡng Dưa chuột Dưa chuột Boothbys Dưa hấu nhỏ Mexico dưa lưới dừa sáp dược phẩm Dương cam Cúc Dương đào Đào ruột xanh Đặc Biệt đậu Đậu Âm Dương Calypso Đậu biếc Đậu biếc Lavender Đậu Hoà Lan Đậu Lam Siberian Đậu nành Đậu nành envy Đậu nành Tankuro Đậu ngự Đậu ngự Jackson Wonder Đậu phộng Đen Đậu que tím Đậu tằm Đồng Tháp Động vật Eggplant El Nino Featured Fenugreek Feverfew Garden thyme German Chamomile giá hồng socola Gia vị Giảm cân Gieo trồng Giống cây trồng giống dự trữ Giống Hiếm GLY00099 GLY00100 Glycine max Goji Goji Berry GOURD Gourd Baby Bottle Gourd Yugoslavian Fingers Hạ khô thảo Hành tăm Hành trắng Hạt Chia Hạt Giống Hạt giống Bầu Bí Hạt giống Hoa Hạt Giống Hoa Hạt Giống Rau Hạt Giống Rau Quả Hạt Giống Thảo Mộc Hạt giống Tí Hon hạt maca Hạt Methi HealthWorks HERB Highbush Blueberry Himalayan Honeysuckle họ Bạc hà Họ Bạc hà Họ Bầu bí Họ Cà Họ Cúc họ La bố ma Họ Ráy Họ Thạch nam Hoa hoa chim thiên đường Hoa Chuông Hoa Cúc Hoa cúc Đức Hoa mào gà Hoa môi Hoa Oải Hương Hoa Thiên điểu Hoa tình yêu Nigella Hooligan Pumpkin hồng đen hồng socola hồng socola Nhật Bản húng quế Húng quế́ Huyết bì thảo hương liệu Hương Thảo JAC00093 Jacaranda mimosifolia Japanese Kênh 1 Kênh 2 Khuyến nông Kim Ngân Kiwi lạc Lagenaria Lagenaria siceraria làm cảnh làm đẹp Làm vườn LAT00116 LAT00118 Lathyrus odoratus LAV00078 LAV00079 Lavandula Lavandula angustifolia Lavandula augustifolia LAVENDER Lavender Munstead Lavender English Lemon Basil LEY00090 Leycesteria formosa Loa kèn đỏ LYC00084 Lycium Lycium chinense mã đề Malva sylvestris Mammoth Red Clover MAT00056 Matricaria chamomilla Melothria scabra MEN00081 Mentha × piperita meridian fennel Mexican Mint Milk Thistle Mini Plant Mint MOL00055 Moluccella Molucella laevis Món Ngon Monarda Monarda citriodora mướp mỹ phẩm nấm nấm mộc nhĩ Nén New 2015 Ngải Ngải thơm Nghệ tây Nhãn Nhãn lồng Hưng Yên Nhãn tiêu da bò Nhãn xuồng nhập khẩu từ Mỹ Nhập khẩu từ USA Nhập từ Canada Nhật Bản Nhiệt đới nipple fruit nongthonviet nongthonviet.com northern pitcher Nông dân Nông dân làm giàu Nông nghiệp nông nghiệp Việt Nam Nông thôn Việt nuôi cá Nuôi chim nuôi Dòi nuôi tôm Càng Xanh Nuôi trồng Nuôi vịt Open-Pollinated PAP00117 Papaver rhoeas Pea Peppermint Peppermint swiss chard Persian cumin PHA00102 PHA00104 Phaseolus lunatus Phaseolus vulgaris Phượng tím PHY00052 Physalis Physalis ixocarpa Pineapple Tomatillo Pisum Pisum sativum Prizewinner PRU00060 Prunella Prunella vulgaris Pumpkin Pumpkin Prizewinner purple pitcher quất Queen Anne's lace Queen's Bird-of Paradise Queen's Bird-of-Paradise Quỷ xuy tiêu Rau ăn lá Rau Bina rau chân vịt rau củ quả rau Dền rau diếp xoăn rau gia vị Rau húng Rau Quả rắn Lục Red Red Kangaroo Paw Romano Purpiat Bean ROS00051 Rosemary Rosmarinus officinalis Saffron Salvia Salvia hispanica Sarracenia Sarracenia Purpurea sâm Hàn Quốc sầu riêng Silybum Silybum marianum SNAKE GOURD SOL00125 Solanaceae Solanum Solanum Mammosum Solanum melongena Sơn thù du Spaghetti Squash Spinacia Spinacia oleracea STA00065 Stachys Stachys coccinea STR00092 Strelitzia reginae Striped Toga Eggplan Suraj Eggplant sức khỏe Sweet Pea TAG00050 Tagetes Lucida tài chính Tảo Spirulina Tegu thanh hao hoa vàng Thảo dược Thảo Dược Thảo luận Thảo Mộc thầu dầu Thì là Ba tư Thiên điểu Thiên nhiên Thôi chanh lá tiêu huyền thuốc lợi tiểu thủy canh Thủy tô Thủy tô tía THY00082 Thymus vulgaris titty fruit Tivoli Tomatillo Toothache Plant Trà Vinh trang trại trang trí Trang trí Treated Seeds Trị Bệnh Triamble Trichosanthes Trichosanthes cucumerina Trifolium pratense Trigonella Trôm trồng lúa trồng rau trồng rau sạch tử đằng Tử đằng Nhật bản Utricularia Alpina VAC00086 Vaccinium corymbosum VIC00106 Vicia faba viêm khí quản Việt quất Việt quất xanh Vịt Uyên ương Voodoo Lily Vú sữa Hoàng Kim Vui wild carrot Windowsill Chives Windsor Fava Bean WIS00085 Wisteria Wisteria floribunda wormwood y học cổ truyền Ý kiến